I. Địa điểm:
– Nhà thờ Núi Trà Kiệu, làng Trà Kiệu, xã Duy Sơn, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam. Nằm bên bờ sông Thu Bồn, cách thành phố Ðà Nẵng khoảng 45 km về phía tây nam, cách thị trấn Nam Phước 9 km, cách Thánh Địa Mỹ Sơn 10 km về phía Tây. Trước năm 1975 nhiều người còn gọi tên Trà Kiệu là hòn Bửu Châu.
– Đường đi đến: từ ngã ba Nam Phước ( Thị trấn Nam Phước, huyện Duy Xuyên ) đi theo đường 537 khoảng 9 km sẽ đến di tích Kinh đô Trà Kiệu nay là Nhà thờ Núi Trà Kiệu.
– Loại đường giao thông: đường nhựa.
Diện tích làng Trà Kiệu:Hơn 10 000 ha
II. Khởi Nguyên
Trà Kiệu là nơi đặt kinh đô của vương quốc Lâm Ấp từ khoảng năm 605 đến năm 757, với tên gọi là Simhapura. Simhapura là kinh đô của tiểu quốc Avamarati một trong 5 tiểu quốc của vương quốc Champa và người đặt đô đầu tiên ở đây là vua thứ 9 Vikrantavacman II, thuộc dòng Gangaraja trị vì từ thế kỉ 3 đến giữa thế kỉ 8. Trà Kiệu mang hình bóng kinh đô cổ xưa về vương quốc Chămpa (hay còn gọi là Lâm ấp) nằm trên bờ sông Thu Bồn, ngày nay chỉ còn lại những chân móng tường thành sụp đổ bị chôn vùi trong đất đá hoặc cô đọng lại trong vài trang sử nhỏ.
1. Tích sự về Chiêm Động
Vắn tắt:
Phải tính từ cuối thế kỷ thứ II sau công nguyên thì dân tộc Chàm sống dọc theo miền trung nước ta ngày nay. Lúc này ranh giới phía Bắc giáp với Giao Châu, phía nam giáp với Tây cống (Thủy chân lạp) vào năm 192 cuối đời nhà Hán có người huyện này tên là khu liên, nổi lên chống trả lại triều đình giết huyện lệnh rồi được người chiêm tôn làm vua đặt tên nước là lâm ấp (tức Champa) địa danh này nằm ở phía nam giao châu. Sau này cháu ngoại là Phạm Hùng kế vị.
Năm 353 thứ sử Giao châu đánh vua Lâm ấp là Phạm Phật – năm 420 Đỗ tuệ độ cất binh đánh Lâm ấp bắt quy hàng. – năm 433 vua Lâm ấp là Phạm dương mại thấy nhà Tống nội chiến phân tranh nam Bắc bị suy yếu chánh sự nên cất binh đánh phá Nhật nam & Cửu chân, Vua tống sai Đoàn hòa chí đánh trả và diệt vong gần hết 1 tiểu vương quốc của Lâm ấp. Từ năm 605 đời nhà tùy giao chiến mãi đến năm Trinh quan đời nhà đường (vua Thái tông), Vua Lâm ấp là Phạm đầu lê và con Phạm tấn Long mất nên Lâm ấp lập con của bà Cô là Chư cát địa lên làm Vua đổi tên nước là Hoàn vương quốc. Mãi đến năm Mậu Tý 808 Trương Chu cất binh đánh hoàn vương quốc giết hại rất nhiều nên vua hoàn vương yếu thế rút lui vào phía nam (vùng TRÀ BÀN đổi tên nước là Chiêm thành, nơi đây SIMHAPURA (Sư tử thành) được chọn là kinh đô đệ nhất đế.
Đây là Kinh thành tráng lệ nằm trong tiểu vương quốc Amaravati là 1 tiểu vương quốc hùng mạnh nhất trong 5 tiểu vương quốc champa lúc bấy giờ trải gần một thiên niên kỷ, bởi vậy mới có câu: “Điện các huy hoàng trong ánh nắng. Đền đài tuyệt mỹ dưới trời xanh” Cho đến đời vua Viạya Cri (998 – 1009) thì dời vào đồ bàn đến đây Simhapura được dân gian gọi là Chiêm động, từ lúc đó dân gian quanh vùng ai cũng sợ những vị thần bảo vệ vương quyền của vương quốc champa còn trú ngụ nên không ai lui tới nữa tức TRÀ KIỆU NGÀY NAY . Sau này có nhiều giòng tộc theo Thiên Chúa giáo vào ở ngay trên Simhapura và dần dần đông đúc lập nên nhà thờ Trà Kiệu… Ở miền đất này có đài kính Đức Maria ngay trên đồi Bửu Châu (Vương cung thánh đường Đức Maria)
2. Lịch Sử
Thể theo Thủy Kinh Chú của Lý Đạo Nguyên người Bắc Ngụy viết vào thế kỷ thứ 7, kinh thành Sư tử được mô tả khá hấp dẫn: “Thành ấy ở phía tây khúc sông là kinh đô Lâm ấp, lập ở Điển Xung, cách bờ biển 40 dặm. Về phía tây nam giáp núi, phía đông bắc trông ra sông. Nhiều lớp hào bao quanh chân thành, và bên ngoài các hào về phía đông nam sông chảy men bờ thành. Bề đông tây của thành thì dài, bề nam bắc thì hẹp. Phía bắc, sông uốn khúc chảy từ đông tây vào thành. Chu vi 8 lý 120 bộ. Thành xây gạch cao 2 trượng, trên thành có tư-ờng gạch cao 1 trượng, trổ lổ vuông, trên dựng ván, trên ván có gác cất lên, trên gác có mái, trên mái có lầu, lầu cao thì sáu, bảy trượng; lầu thấp thì bốn, năm trượng… Cách kiến trúc mạnh nhưng vụng… Trong thành lại có thành nhỏ chu vi 230 bộ. Nhà họp và điện ngồi đều không trổ cửa về phương nam…”. (Trích Quảng Nam – Đà Nẵng NXB Văn học năm 1983).
Sau chính biến năm 1470 giữa vương quốc Champa và Đại Việt, vua Lê Thánh Tông đã đặt mốc biên giới tại Thạch Bi sơn, và cùng với đó là làn sóng di cư của những người Việt vào Nam theo đà nam tiến. Vào năm 1623, Trà Kiệu đã được một số người tình nguyện di dân ở các vùng chung quanh chọn để tới khai hoang lập ấp.
Theo nhiều nhà nghiên cứu thì tên Trà Kiệu được xuất phát từ cách gọi Chùm Chà chỉ những người Chiêm Thành. Chữ Chà phía sau đọc trại thành Trà còn chữ Kiệu có thể hiểu rằng người ở nơi xa đến, ý chỉ những người đàng Ngoài vào lập nghiệp tại vùng đất này.
Để xác minh dấu vết của kinh thành có đúng như Thủy Kinh Chú miêu tả hay không, năm 1927 – 1928 dưới sự chỉ đạo của nhà khảo cổ học J.Y Claeys, trường Viễn Đông Bác cổ của Pháp ở Hà Nội (école Francaise Extrême Orient) đã tiến hành cuộc khai quật khảo cổ học lớn nhất gần mười tháng trời. Điều xác tín qua cuộc khai quật này hoàn toàn nhất trí với những điều được bộ sử cổ ghi chép về kinh thành Sư tử cổ xưa trên đất Trà Kiệu. Căn cứ vào nền móng phát hiện, Sinapura có chu vi khoảng 4km, thành phía tây dài 1700m, thành phía tây bắc – đông nam dài 500m. Mặt trước tòa thành, hư¬ớng về đông có nhiều công trình kiến trúc ngự trên ngọn đồi cao 10m. Phía bắc thành, đoạn sông Bà Rén làm thành rào bảo vệ vòng ngoài. Ở điểm cao khoảng trên 20m là ngọn đồi Bửu Châu án ngữ. Xưa kia đường lên đồi là những bậc thềm lót đá đư¬ợc trang trí thêm nhiều tượng thú vật, nhiều nhất là tượng voi, sư tử đứng chầu. Các pho tượng này, ngày nay đã được đưa đến khuôn viên nhà thờ công giáo Trà Kiệu, một số được chuyển về Bảo tàng Chàm Đà Nẵng. Phía nam thành, dựa hẳn vào nhiều quả đồi sa thạch. Phía tây có suối đổ về, trên ngọn con suối này còn sót lại ngọn tháp đẹp có tên là tháp Chiêm Sơn. Tiếc thay ngọn tháp này cũng bị hủy hoại.
Sau cuộc khai quật một phần kinh đô cổ Trà Kiệu của Claeys vào các năm 1927 – 1928, nhưng tầng văn hóa dưới lòng đất Trà Kiệu lại ngủ yên suốt hơn nửa thế kỷ. Từ thập niên 90 đến nay những nhát cuốc của các nhà khảo cổ đã rộn ràng đánh thức những di chỉ văn hóa ẩn chìm dưới lòng đất. Ngoài các di chỉ văn hóa Chăm, vùng đế đô xưa một thời vang bóng này còn chứa các di chỉ văn hóa Sa Huỳnh đầy lôi cuốn với những ai muốn soi rọi lại một phần quá khứ của hàng nghìn năm trước.
Vào những năm 1980, có nhiều những hiện vật nhỏ làm bằng vàng đã được khai quật. Chúng là những trang sức có hình mặt trăng, mặt trời, các vì sao, còn có cả những bức tượng thần rỗng ruột, tượng động vật và những cuốn sách thánh dày tạo bởi vàng lá dày 1cm khắc chữ Phạn và những miếng vàng hình tròn với những mẫu tự tiếng Ả Rập. Tổng sô vàng được tìm thấy lên đến vài kí. Điều này cho thấy sự giàu có, trù phú của thành Sinhapura trong thời kì phát triển thịnh vượng nhất từ thế kỉ thứ 4 đến thế kỉ thứ 10.
Về điêu khắc đá của Simhapura cổ xưa có thể tìm thấy hình bóng rực rỡ của nó qua phòng chính giữa của Bảo tàng Chàm Đà Nẵng. Đây là thời cực thịnh của Vương quốc Chămpa từ thế kỷ thứ 4 đến thế kỷ thứ 10 – 12 mà cả thành đô Mỹ Sơn và kinh đô Trà Kiệu đều là minh chứng lịch sử nổi bật nhất. Nói đến Simhapura, trước đây người ta thường nói đến ngôi đền chính trong Hoàng thành. Mỗi cạnh của nó dài tới 10m, chiều cao có thể lên tới 40m. Nếu còn đến ngày nay, rõ ràng đây là ngôi tháp đồ sộ nhất trong hàng kiến trúc Chămpa ở vùng Đông Nam Á. Trong đền tháp này có một cái bàn thờ lớn hình vuông, mỗi cạnh 3m, cao 1,50m. Trên đó tạo 12 vũ nữ Apsara đứng múa trước dài sen. Bàn thờ đó đã trở thành kiệt tác trong điêu khắc cổ xưa của thế giới còn lại tới hôm nay.
Tất cả các đền thờ ở kinh đô Trà Kiệu đều thờ thần Siva và Visnu là hai chư thần bảo hộ cho các Vương triều Chămpa lúc bấy giờ. Chủ đề nổi bật của Trà Kiệu – Kinh thành Sư tử là các tượng đá Sư tử với nhiều tư thế sống động : đi, đứng, ngồi, nằm phủ phục, vươn mình, nhe nanh… mỗi tượng đều có bố cục độc đáo từ hình khối đến sắc thái biểu cảm trên đôi mắt, khối ngực, bước chân khỏe khoắn, dáng đứng oai vệ… Mặt khác đây là sự hóa thân công đức của Visnu, vì có lần đấng tối thượng này hóa thành Sư tử để bảo vệ loài người, bảo vệ chư thần thoát khỏi nanh vuốt của quỷ dữ. Cũng qua những di chỉ tìm được trong các cuộc khai quật khảo cổ sau này, người ta đã hình dung được vẻ đẹp kỳ lạ của các kiến trúc Chăm về đền đài, cung điện, lâu đài, thành quách… đã làm cho kinh đô Trà Kiệu thêm hấp dẫn để trở thành trung tâm giao lưu kinh tế – văn hóa của Vương quốc Chămpa với các nước láng giềng như Cămpuchia, Inđônnêxia hồi bấy giờ
III. Nét hấp dẫn
Kinh đô Trà Kiệu là một tổng thể không thể thiếu được trong nền văn minh , văn hóa Á Đông nhất là văn minh Champa là : Kinh đô – Lăng Miếu , Thánh địa , Đền đài để thờ cúng các tiên vương, chư thần…Theo nghiên cứu của GS.TS Trần Quốc Tý, nếu du khách nhìn từ Cù Lao Chàm- nhà thờ Trà Kiệu – và thánh địa Mỹ Sơn là nằm trên một đường thẳng theo đường chim bay. Đây là một phát hiện vô cùng lí thú.
Cho đến nay, giới khảo cổ và sử học đã tìm thấy nhiều di tích đền, tượng, bệ thờ, tường thành, đồ gốm, bia kí và nhiều bức phù điêu tại Trà Kiệu, trong đó nổi tiếng nhất là bức chạm “Vũ nữ Trà Kiệu”. Tất cả những hiện vật này một phần được mang về Bảo tàng điêu khắc Chăm tại Đà Nẵng, số còn lại du khách có thể chiêm ngưỡng tại một cửa hàng đồ lưu niệm đặt trong khuôn viên Nhà thờ Trà Kiệu như ghi nhận những phồn thịnh và lưu giữ những hình ảnh đẹp kì lạ về dấu tích điêu khắc Chăm một thời tại Trà Kiệu.
Ngày nay tại Trà Kiệu, một nhà thờ thiên chúa giáo đã được xây dựng trên ngọn đồi Bửu Châu. Nó được xây dựng trên nền của một tháp Chăm. Đứng ở đây chúng ta sẽ có được một cái nhìn toàn cảnh thung lũng Trà Kiệu với những cánh đồng màu mỡ và một bức tường thành dài hơn 1000 m, một di tích bên trong cung điện đã được miêu tả như trong Thủy Kinh Chú của Trung Quốc. Từ đỉnh đồi chúng ta có thể thấy đỉnh núi Mỹ Sơn ở phía Tây và Cù Lao Chàm về phía Đông . Từ đây chúng còn thấy được địa hình thuận lợi và những phong cảnh đẹp mà người Chăm đã chọn để xây dựng thủ đô của mình.
Trà Kiệu ngày nay lại được chọn là Trung Tâm Thánh Mẫu. Hằng năm, cứ vào ngày 31 tháng năm, lại có hàng vạn người, cả lương lẫn giáo, từ các tỉnh miền Trung tấp nập kéo nhau về đây cầu nguyện và xin ơn Đức Mẹ.
IV. Du lịch
– Hiện nay tại Trà Kiệu còn rất nhiều di tích vẫn chưa được tìm thấy. Trong tương lai cần phải có nhiều cuộc khai quật nữa mới có thể thấy được sự vĩ đại của thành Simhapura.
- Hiện bờ tường thành dài gần 1 km còn sót lại của di tích thành Trà Kiệu đang đứng trước nguy cơ biến mất do sự thiếu ý thức bảo vệ của cư dân địa phương và tác động của thời tiết. Do đó cần có sự quan tâm đúng mức trong công tác bảo vệ di tích kiến trúc này.
- Lập một bảo tàng trưng bày các hiện vật khai quật được ở đây và tái hiện hình ảnh của Kinh đô xưa, để du khách khi tham quan có thể chiêm ngưỡng và tìm hiểu về lịch sử và văn hóa của người Chăm. Đồng thời tạo nên một sản phẩm du lịch mới trên tuyến thăm quan di sản văn hóa thế giới Mỹ Sơn.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét